Di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc nằm trong thành phố Chí Linh và đã được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt vào năm 2012. Nơi này bao gồm các di tích lịch sử liên quan đến những chiến công vĩ đại trong ba cuộc chiến của dân tộc Trần chống lại quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống lại quân Minh thời kỳ XV. Đây là nơi có liên quan mật thiết đến sự nghiệp và danh tiếng của các anh hùng dân tộc như Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cùng với nhiều danh nhân văn hoá khác của dân tộc như Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang... Điểm nổi bật của khu di tích này là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc.
Chùa Côn Sơn nằm ở phường Cộng Hòa, thành phố Chí Linh, là một trong những trung tâm Phật giáo của dòng thiền phái Trúc Lâm Đại Việt được sáng lập bởi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông vào thế kỷ XIII. Kiến trúc của chùa theo phong cách chữ công, gồm có Tiền đường, Thiêu lương và Thượng điện, là nơi thờ Phật với những tượng Phật có chiều cao lên tới 3 mét từ thời Lê.
Tam quan chùa Côn Sơn
- Con đường dẫn vào Tam quan được lát bằng gạch và chạy dài dưới hàng thông đã tồn tại hàng trăm năm, xen lẫn với những tán vải thiều xanh mượt. Tam quan được xây dựng vào năm 1995, mang phong cách cổ, có 2 tầng và 8 mái với các hoạ tiết hoa lá và mây tản cách điệu theo nghệ thuật kiến trúc thời Lê.
Khung cảnh bên trong chùa
Tòa Cửu phẩm liên hoa được khánh thành vào năm 2017.
Đền thờ Nguyễn Trãi được khởi công xây dựng vào ngày 14-12-2000 trên một khu đất rộng gần 10.000 mét vuông, nằm tại chân núi Ngũ Nhạc trong khu vực Thanh Hư Động và gần nơi từng có đền thờ bà Trần Thị Thái, mẹ của Nguyễn Trãi. Phía bên phải là dòng suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam, uốn lượn từ phải sang trái và ôm lấy khu đền.
Toàn cảnh di tích đền thờ Nguyễn Trãi nhìn từ trên cao phía sau đền
Ngôi đền chính tựa lưng vào Tổ Sơn, hai bên tì vào hai dãy núi Ngũ Nhạc và Kỳ Lân là tả Thanh long và hữu Bạch hổ. Phía trước có hồ nước rộng, tiếp theo là núi Trúc Thôn đối diện với núi Phượng Hoàng. Xa xa là dãy núi An Lạc.
Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, thành phố Chí Linh, là nơi thờ phụng vị vua Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tên gọi Kiếp Bạc là sự kết hợp của hai vùng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Đây là một trong những di tích quan trọng thuộc khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc. Khu vực đền Kiếp Bạc nằm trong một thung lũng phồn thịnh, được ba phía bao bọc bởi dãy núi Rồng và một phía là sông Lục Đầu Giang. Núi tạo thành hình ảnh rồng chầu, hổ phục, sông tạo thành con đường minh đạo rộng rãi. Phía trước đền có một cổng lớn với ba cửa vào, mang đến một vẻ đẹp uy nghi và tráng lệ. Trên trán cổng phía ngoài có bốn chữ "Hưng thiên vô cực", dưới đó là năm chữ "Trần Hưng Đạo Vương từ".
Vào thế kỷ XIII, địa điểm này đã trở thành căn cứ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, nơi lưu giữ lương thực và huấn luyện quân sĩ trong cuộc kháng chiến chống lại quân Nguyên Mông. Vào thế kỷ XIV, một đền thờ được xây dựng tại địa điểm này để tôn vinh ông và là nơi tổ chức các lễ hội hàng năm để tưởng nhớ vị anh hùng của dân tộc Việt, người đã có công lớn với đất nước và được dân gian tôn sùng là Đức Thánh Trần.
Nghi môn đền Kiếp Bạc
Đền Kiếp Bạc được tái hiện trong bức tranh hội quân trên sông Lục Đầu Giang trong lễ hội mùa thu.
Không xa Hà Nội, có một di tích lịch sử nổi tiếng, mỗi năm vào những ngày này, người dân từ khắp nơi đến tham quan và tôn kính với sự tôn nghiêm. Đó là đền thờ Chu Văn An, nơi tưởng nhớ người thầy giáo với tấm gương mẫu mực về tâm đức sáng ngời, nằm trên núi Phượng Hoàng thuộc phường Văn An, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Chu Văn An, còn được biết đến với tên gọi Linh Triệt và hiệu là Tiều Ẩn, sinh ra tại thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay thuộc xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ông đã đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) nhưng không chọn con đường làm quan mà quyết định mở trường Huỳnh Cung bên kia sông Tô Lịch để truyền đạt tri thức. Sau đó, ông được Vua Trần Minh Tông mời ra làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, giảng dạy cho các Thái tử và hỗ trợ nhà vua trong việc quản lý đất nước. Đến thời Trần Dụ Tông, triều đình gặp nhiều rắc rối, Chu Văn An đã khuyên can giúp nhà vua giữ vững tình hình và bảo vệ lợi ích của người dân, tuy nhiên những lời khuyên này đều không được chấp nhận. Vì vậy, ông đã rời khỏi triều đình và sống ẩn dật tại núi Phượng Hoàng, tiếp tục dạy học, viết sách và tìm kiếm thuốc chữa bệnh cho người dân cho đến khi qua đời. Sau khi ông mất, Vua Trần Nghệ Tông đã trao tặng danh hiệu Văn Trinh Công - tước vị cao nhất trong hạng tước và xây dựng đền thờ tại Văn Miếu để tưởng nhớ ông.
Khu di tích Phượng Hoàng - nơi Chu Văn An sống ẩn dật và giảng dạy, đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử và được trùng tu, tôn tạo và xây dựng lại nhiều lần. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của thời gian và chiến tranh, nhiều công trình tại khu di tích đã bị hư hại. Từ năm 1997, chính quyền tỉnh Hải Dương đã bắt đầu khai quật và khôi phục các công trình cổ và xây dựng mới. Hiện nay, khu di tích bao gồm 3 khu chính là Đền thờ, Lăng mộ và Điện Lưu Quang - nơi Chu Văn An từng giảng dạy trong quá khứ.
Toàn bộ công trình đã được tái tạo và xây dựng hoàn toàn mới, với kiến trúc cổ điển và chắc chắn. Trên 100 bậc đá dẫn lên đến ngôi đền thờ thầy giáo Chu Văn An. Đền thờ này gồm có tiền tế và hậu cung, được xây dựng theo kiểu chồng diêm hai tầng và tám mái.
Ngay phía trước đền là hai con rồng đá được khắc hoạt mỹ theo phong cách của thời Trần, tượng trưng cho sự uy nghi và tinh tế.
Vẻ đẹp thiên nhiên của vùng này đã trở thành đề tài trong nhiều bài thơ: "Kiệt sơn thất thập nhị phong", với ngọn Phượng Hoàng là điểm nhấn đặc biệt trong vùng Chí Linh.
Con đường dẫn lên lăng mộ thầy giáo Chu Văn An hiện đã được hoàn thiện với các bậc đá và lan can, hòa vào cảnh quan hai bên là những cánh rừng thông xanh mát và vang lên những tiếng hát vui tươi.
Lăng mộ thầy giáo Chu Văn An yên bình nằm trên đỉnh đồi phía đông núi Phượng Hoàng, được xây dựng bằng đá xanh và khắc hoạt mỹ theo phong cách trang trí của thời Trần. Cách khu lăng mộ khoảng 50m về phía tây là giếng Ngọc. Theo truyền thuyết, khi thầy giáo Chu Văn An qua đời, suốt một năm hương khói từ mộ thầy đã lan tỏa khắp đỉnh núi, và các học trò đã tìm ra một nguồn nước và xây dựng thành giếng để giữ nguồn nước phục vụ cho việc thờ phụng thầy. Giếng Ngọc có điểm đặc biệt là luôn luôn đầy nước. Thành giếng được xây cao khoảng 1m và được khắc hoạt mỹ với hình ảnh hai con rồng chầu nguyệt. Nhiều người đến thăm viếng đều muốn nhận một gáo nước từ nguồn nước thiêng này để rửa mặt.
Chu Văn An, một nhà giáo đại diện cho dân tộc Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử quốc gia với tư cách là một học giả kiệt xuất và một tấm gương sáng về đạo đức con người. Mỗi năm, tại khu di tích được xem là biểu tượng của ông, Lễ khai bút đầu xuân vào ngày 8 tháng Giêng (âm lịch) và Lễ hội về nguồn vào ngày 26 tháng 11 (âm lịch) đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của toàn dân, đặc biệt là giáo viên, học sinh và sinh viên.
Ngoài việc là nơi truyền dạy truyền thống tôn sư trọng đạo, khu di tích này còn thu hút du khách từ khắp nơi trong cả nước bởi vẻ đẹp và ý nghĩa văn hoá của nó.